Câu 1: Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII và HĐND các cấp nhiệm kỳ 2011-2016 có mục đích, ý nghĩa gì?
Trả lời:
Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thành phố; xã, thị trấn nhiệm kỳ 2011-2016 là sự kiện chính trị lớn, có ý nghĩa quan trọng đối với đất nước, được tổ chức trong thời điểm có nhiều thuận lợi, cả nước đang bước vào giai đoạn đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, với những thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Cuộc bầu cử lần này là đợt vận động và sinh hoạt dân chủ sâu rộng trong nhân dân thành phố để bầu ra những người đại biểu ưu tú, đại diện cho nhân dân tại Quốc hội – cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất; bầu ra các đại biểu đại diện cho nhân dân thành phố; xã, thị trấn – cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương trong nhiệm kỳ 2011-2016.
Câu 2. Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội năm 2001 sau 10 năm thực hiện đã có những bất cập gì?
Trả lời: có 6 nội dung bất cập sau đây
a. Về khu vực bỏ phiếu, Luật quy định mỗi khu vực bỏ phiếu có từ ba trăm đến hai nghìn cử tri. Thực tế bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XII cho thấy, quy định này là chưa phù hợp với những địa phương có mật độ dân số cao hoặc với những khu dân cư có trên hai nghìn cử tri.
b. Về thành phần Tổ bầu cử, Luật quy định thành viên Tổ bầu cử gồm đại diện Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp và đại diện cử tri ở địa phương, với số lượng từ năm đến mười một người. Tuy nhiên, do phải thành lập nhiều Tồ bầu cử nên trên thực tế nhiều địa phương đã không có đại diện của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân tham gia Tổ bầu cử. Đây là quy định cần được sửa đổi để bảo đảm tính khả thi trong việc tổ chức thực hiện.
c. Về giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với công tác bầu cử, Luật không quy định về thẩm quyền giải quyết cho Tổ bầu cử dẫn đến các khiếu nại, tố cáo tập trung lên Ban bầu cử, gây quá tải đối với công việc của Ban bầu cử.
d. Về số người ứng cử tại mỗi đơn vị bầu cử, Luật quy định số người trong danh sách ứng cử ở mỗi đơn vị bầu cử phải nhiều hơn số đại biểu được bầu ở đơn vị đó. Quy định này đã không giải quyết được các trường hợp khuyết người ứng cử vì lý do bất khả kháng (sau khi danh sách những người ứng cử đã được công bố nhưng do người ứng cử bị truy cứu trách nhiệm hình sự, bị chết hoặc vì lý do khác phải xóa tên khỏi danh sách). Đối với các đơn vị bầu cử được bầu ba người, nếu số dư chỉ có một người thì chưa thực sự bảo đảm tính dân chủ để cử tri lựa chọn.
đ. Về thời điểm kết thúc cuộc bỏ phiếu, Luật chưa quy định điều kiện để Tổ bầu cử có thể tuyên bố kết thúc sớm tại các khu vực bỏ phiếu khi đã có 100% cử tri đi bỏ phiếu. Do đó đã gây lúng túng cho các Tổ bầu cử khi quyết định kết thúc cuộc bỏ phiếu sớm hơn giờ quy định để có thể thực hiện các công việc khác của công tác bầu cử.
e. Về thời điểm kết thúc nhiệm vụ của các tổ chức phụ trách bầu cử ở địa phương, luật quy định là thời điểm sau khi Hội đồng bầu cử công bố kết quả bầu cử. Tuy nhiên quy định này là không phù hợp với thực tế vì các tổ chức phụ trách bầu cử này vẫn tiếp tục hoạt động sau khi Hội đồng bầu cử công bố kết quả bầu cử trong cả nước để thực hiện một số công việc như thông báo kết quả bầu cử, giải quyết các vướng mắc phát sinh và quyết toán kinh phí về bầu cử…
Câu 3: Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2003 sau 7 năm thực hiện đã có những bất cập gì?
Trả lời: có 3 nội dung bất cập sau đây
a. Về trách nhiệm gửi biên bản và phiếu bầu của Tổ bầu cử cho các cơ quan hữu quan, Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân quy định Tổ bầu cử phải gửi biên bản kiểm phiếu, phiếu bầu và các tài liệu khác về bầu cử tới Ban bầu cử, Ủy ban nhân dân và Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã, phường, thị trấn. Trong những tài liệu đó thì phiếu bầu chỉ có một bản. Vì vậy, trong tổ chức thực hiện, Tổ bầu cử lúng túng không biết chuyển phiếu bầu cho cơ quan nào.
b. Về thời điểm kết thúc nhiệm vụ của các tổ chức phụ trách bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cũng gặp những vướng mắc tương tự như đối với thời điểm kết thúc nhiệm vụ của các tổ chức phụ trách bầu cử đại biểu Quốc hội.
c. Luật chưa quy định rõ Hội đồng bầu cử phải trình cơ quan có thẩm quyền nào xem xét, quyết định việc hoãn ngày bỏ phiếu hoặc bỏ phiếu sớm gây khó khăn trong thực hiện.
Với những vấn đề nêu trên, việc ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân là cần thiết nhằm bảo đảm cuộc bầu cử được tiến hành thuận lợi, tiết kiệm, an toàn, dân chủ và đúng pháp luật.
Câu 4: Việc bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân được thực hiện theo nguyên tắc nào?
Trả lời:
Việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân được tiến hành theo 4 nguyên tắc: PHỔ THÔNG, BÌNH ĐẲNG, TRỰC TIẾP và BỎ PHIẾU KÍN.
Nguyên tắc phổ thông được hiểu là phổ thông đầu phiếu để bảo đảm cho mọi công dân không phân biệt dân tộc, nam, nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở lên đều có quyền tham gia bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật.
Nguyên tắc bình đẳng là nhằm bảo đảm để mọi công dân đều có cơ hội ngang nhau khi tham gia bầu cử, nghiêm cấm mọi sự phân biệt dưới bất cứ hình thức nào. Theo nguyên tắc này thì mỗi cử tri chỉ được ghi tên vào một danh sách cử tri ở một nơi cư trú và mỗi cử tri chỉ được bỏ một phiếu bầu.
Nguyên tắc trực tiếp có nghĩa là công dân trực tiếp thể hiện ý chí của mình thông qua lá phiếu bầu bằng việc tự mình đi bầu cử và tự mình bỏ lá phiếu vào hòm phiếu chứ không được nhờ người khác bầu hộ, bầu thay mình.
Nguyên tắc bỏ phiếu kín: là nhằm bảo đảm tính khách quan trong việc lựa chọn của cử tri.
Theo nguyên tắc này, cử tri bầu ai hoặc không bầu ai đều được bảo đảm bí mật. Khi cử tri viết phiếu bầu không ai được đến gần, kể cả cán bộ, nhân viên của các tổ chức phụ trách bầu cử; không ai được biết và can thiệp vào việc viết phiếu bầu của cử tri. Cử tri viết phiếu bầu trong buồng kín và bỏ phiếu vào hòm phiếu.
Câu 6: Ai có quyền bầu cử? ai không có quyền bầu cử?
Trả lời:
Theo quy định tại Điều 23 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và Điều 25 Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thì:
- Quyền bầu cử là một quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật, theo đó Công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam không phân biệt dân tộc, nam, nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử.
- Người không có quyền bầu cử là người đang bị tước quyền bầu cử theo bản án, quyết định của toà án đã có hiệu lực pháp luật, người đang phải chấp hành hình phạt tù, người đang bị tạm giam và người mất năng lực hành vi dân sự thì không được ghi tên vào danh sách cử tri để bầu cử.
Tuy nhiên, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cũng quy định người bị tước quyền bầu cử theo bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật, người phải chấp hành hình phạt tù, người bị tạm giam và người mất năng lực hành vi dân sự nếu đến trước thời điểm bỏ phiếu 24 giờ được khôi phục lại quyền bầu cử, được trả tự do hoặc được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác nhận không còn trong tình trạng mất năng lực hành vi dân sự thì được bổ sung vào danh sách cử tri và được phát thẻ cử tri.
Ngược lại, người có tên trong danh sách cử tri mà đến thời điểm bắt đầu bỏ phiếu bị toà án tước quyền bầu cử, phải chấp hành hình phạt tù, bị bắt tạm giam hoặc mất năng lực hành vi dân sự, thì Uỷ ban nhân dân cấp xã xoá tên người đó trong danh sách cử tri và thu hồi thẻ cử tri.
Câu 7: Người bị kết án tù nhưng cho hưởng án treo có được ghi tên vào danh sách cử tri hay không?
Trả lời:
Luật bầu cử đại biểu Quốc hội quy định người đang bị tước quyền bầu cử theo bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật, người đang phải chấp hành hình phạt tù, người đang bị tạm giam thì không được ghi tên vào danh sách cử tri.
Như vậy, người bị kết án tù nhưng cho hưởng án treo, nếu không bị tước quyền bầu cử thìvẫn được ghi tên vào danh sách cử tri, được phát thẻ cử tri để tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội.
Câu 8: Cách tính tuổi để thực hiện quyền bầu cử và ứng cử của cử tri được quy định như thế nào?
Trả lời:
Căn cứ Điều 1 Nghị quyết số 1020/2011/UBTVQH12 ngày 14/2/2011 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội hướng dẫn một số điểm về việc tổ chức cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011-2016 thì cách tính tuổi để thực hiện quyền bầu cử, ứng cử được thực hiện như sau:
- Tuổi để thực hiện quyền bầu cử và ứng cử của công dân được tính từ ngày, tháng, năm sinh ghi trong Giấy khai sinh đến ngày bầu cử đại biểu Quốc hội, bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (tức là đến ngày 22/5/2011). Trường hợp không có Giấy khai sinh thì căn cứ vào Sổ hộ khẩu hoặc Giấy chứng minh nhân dân để tính tuổi thực hiện quyền bầu cử và ứng cử.
- Mỗi tuổi tròn được tính từ ngày, tháng, năm sinh dương lịch của năm trước đến ngày, tháng, năm sinh dương lịch của năm sau.
- Trường hợp không xác định được ngày sinh thì lấy ngày 01 của tháng sinh làm căn cứ để xác định tuổi thực hiện quyền bầu cử và ứng cử. Trường hợp không xác định được ngày và tháng sinh thì lấy ngày 01 tháng 01 của năm sinh làm căn cứ để xác định tuổi thực hiện quyền bầu cử và ứng cử.
Câu 9: Đại biểu Quốc hội phải có những tiêu chuẩn gì?
Trả lời
Theo Điều 3 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội thì đại biểu Quốc hội phải có những tiêu chuẩn sau:
1. Trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phấn đấu thực hiện công cuộc đổi mới, vì sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,dân chủ, văn minh;
2. Có phẩm chất đạo đức tốt, cần kiệm liên chính, chí công vô tư, gương mẫu chấp hành pháp luật; kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng và các hành vi vi phạm pháp luật;
3. Có trình độ và năng lực thực hiện nhiệm vụ đại biểu Quốc hội, tham gia quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước;
4. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, được nhân dân tín nhiệm;
5. Có điều kiện tham gia các hoạt động của Quốc hội.
Câu 10. Đại biểu Hội đồng nhân dân có những tiêu chuẩn gì?
Trả lời:
Theo Điều 3 Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thì đại biểu Hội đồng nhân dân phải có những tiêu chuẩn sau:
1. Trung thành với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, phấn đấu thực hiện công cuộc đổi mới đất nước và xây dựng, phát triển địa phương;
2. Có phẩm chất đạo đức tốt, gương mẫu chấp hành pháp luật, tích cực đấu tranh chống mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng, lãng phí và các hành vi vi phạm pháp luật khác, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân;
3. Có trình độ và năng lực thực hiện nhiệm vụ đại biểu Hội đồng nhân dân, có khả năng tuyên truyền, vận động gia đình và nhân dân thực hiện chính sách, pháp luật; am hiểu tình hình kinh tế - xã hội để tham gia quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương;
4. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, được nhân dân tín nhiệm;
5. Có điều kiện tham gia các hoạt động của Hội đồng nhân dân.
Câu 11: Người nào không có quyền ứng cử đại biểu Quốc hội?
Trả lời:
Theo Điều 29 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội thì những người sau đây không được ứng cử đại biểu Quốc hội:
1. Người đang bị tước quyền bầu cử theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, người đang phải chấp hành hình phạt tù, người đang bị tạm giam và người mất năng lực hành vi dân sự;
2. Người đang bị khởi tố về hình sự;
3. Người đang phải chấp hành bản án, quyết định hình sự của Tòa án;
4. Người đã chấp hành xong bản án, quyết định hình sự của Toà án nhưng chưa được xóa án;
5. Người đang chấp hành quyết định xử lý hành chính về giáo dục tại xã, phường, thị trấn, tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh hoặc đang bị quản chế hành chính.
Những người đã có tên trong danh sách ứng cử đại biểu Quốc hội mà đến thời điểm bắt đầu bầu cử mà bị khởi tố về hình sự, bị bắt giữ vì phạm tội quả tang hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì Hội đồng bầu cử xóa tên trong danh sách những người ứng cử đại biểu Quốc hội.
Câu 12: Người nào không có quyền ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân?
Trả lời:
Theo quy định tại Điều 31 Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thì những người sau đây không được ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân:
1. Người đang bị tước quyền bầu cử theo bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật, người đang phải chấp hành hình phạt tù, người đang bị tạm giam và người mất năng lực hành vi dân sự;
2. Người đang bị khởi tố về hình sự;
3. Người đang phải chấp hành bản án, quyết định hình sự của Tòa án;
4. Người đã chấp hành xong bản án, quyết định hình sự của Tòa án nhưng chưa được xóa án tích;
5. Người đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành chính về giáo dục tại xã, phường, thị trấn, tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh hoặc đang bị quản chế hành chính.
Những người đã có tên trong danh sách ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân mà đến thời điểm bắt đầu bầu cử mà bị khởi tố về hình sự, bị bắt giữ vì phạm tội quả tang hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự thì Ủy ban bầu cử xóa tên người đótrong danh sách những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân và thông báo cho cử tri biết.
Câu 13: Một người có thể đồng thời là đại biểu Hội đồng nhân dân và đại biểu Quốc hội không?
Trả lời:
Quốc hội và Hội đồng nhân dân đều là cơ quan dân cử. Đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân.
Theo quy định của Điều 4 Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thì một người chỉ được bầu làm đại biểu Hội đồng nhân dân không quá hai cấp.
Như vậy: Theo quy định trên nếu một người đang là đại biểu Quốc hội thì chỉ được bầu làm đại biểu Hội đồng nhân dân ở một cấp mà thôi.
Câu 14: Ngày bầu cử được quy định như thế nào? Cơ quan nào có quyền quyết định việc hoãn ngày bầu cử?
Trả lời:
Theo Nghị quyết số 1018/NQ-UBTVQH12 ngày 21/01/2011, bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011 – 2016 được tiến hành vào ngày Chủ nhật, 22 tháng 5 năm 2011.
Trường hợp đặc biệt cần hoãn ngày bỏ phiếu hoặc bỏ phiếu sớm hơn ngày quy định thì Tổ bầu cử phải kịp thời báo cáo Ban bầu cử để đề nghị Ủy ban bầu cử trình Hội đồng bầu cử xem xét, quyết định.
Câu 15: Về thời gian bỏ phiếu được quy định như thế nào?
Trả lời:
Theo quy định tại Điều 57 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội thì việc bỏ phiếu bắt đầu từ bảy giờ sáng đến bảy giờ tối.
Tùy tình hình địa phương, Tổ bầu cử có thể quyết định cho bắt đầu sớm hơn nhưng không được trước năm giờ sáng hoặc kết thúc muộn hơn nhưng không được quá mười giờ đêm.
Câu 16: Danh sách cử tri do ai lập? Việc niêm yết dánh sách cử tri được quy định như thế nào?
Trả lời:
Theo quy định tại Điều 24 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội thì:
Danh sách cử tri do Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn lập theo khu vực bỏ phiếu.
Danh sách cử tri trong đơn vị vũ trang nhân dân do Chỉ huy đơn vị lập theo khu vực bỏ phiếu. Quân nhân có hộ khẩu thường trú ở địa phương gần khu vực đóng quân có thể được Chỉ huy đơn vị cấp giấy chứng nhận để được ghi tên vào danh sách cử tri và tham gia bỏ phiếu ở địa phương đó. Khi cấp giấy chứng nhận, Chỉ huy đơn vị phải ghi ngay vào danh sách bên cạnh tên người đó "Bỏ phiếu ở nơi cư trú".
Việc niêm yết danh sách cử tri được quy định tại Điều 25 của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội theo đó chậm nhất là 35 ngày trước ngày bầu cử, cơ quan lập danh sách cử tri niêm yết danh sách đó tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã,phường,thị trấn và tại những nơi công cộng của khu vực bỏ phiếu,đồng thời thông báo rộng rãi danh sách cử tri và việc niêm yết để nhân dân kiểm tra.
Câu 17: Khi danh sách cử tri đã niêm yết nếu cử tri thấy có sai sót thì phải làm gì?
Trả lời:
Theo quy định tại điều 26 Luật sửa đổi bổ sung Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội năm 2010 thì:
Khi kiểm tra danh sách cử tri,nếu thấy có sai só tthì trong thời hạn ha imươ ilăm ngày, kể từ ngày niêm yết, mọi người có quyền khiếu nại bằng miệng hoặc bằng văn bản với cơ quan lập danh sách cử tri.Cơ quan lập danh sách cử tri phả igh ivào sổ những khiếu nại đó.Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại,cơ quan lập danh sách cử tri phải giải quyết và thông báo cho người khiếu nại biết kết quả giải quyết.
Trường hợp người khiếu nại không đồng ý về kết quả giải quyết thì có quyền khởi kiện tại Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã,thành phố thuộc tỉnh.Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày nhận được khiếu kiện,Tòa án nhân dân phải giải quyết xong. Quyết định của Tòa án nhân dân là quyết định cuối cùng.
Câu 18: Khi danh sách cử tri đã niêm yết nhưng cử tri vì lý do chính đáng không thể thực hiện quyền bầu cử tại nơi cư trú thì phải làm thế nào?
Trả lời:
Theo quy định tại điều 27 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội thì:
Từ khi niêm yết danh sách cử tri cho đến ngày bầu cử, nếu cử tri nào vì đi nơi khác, không thể tham gia bỏ phiếu ở nơi đã được ghi tên vào danh sách cử tri thì có quyền xin giấy chứng nhận của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi đó để được ghi tên vào danh sách cử tri và tham gia bỏ phiếu ở nơi mới đến. Khi cấp giấy chứng nhận, Uỷ ban nhân dân phải ghi ngay vào danh sách bên cạnh tên cử tri "Đi bỏ phiếu nơi khác".
Câu 19: Về Thẻ cử tri Luật Bầu cử quy định như thế nào ?
Trả lời:
Điều 19 Nghị quyết số 1020/2011/UBTVQH12 ngày 14/2/2011 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội hướng dẫn một số điểm về việc tổ chức cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011-2016 có quy định:
Người đã được ghi tên vào danh sách cử tri thì được phát Thẻ cử tri.
Thẻ cử tri của công dân do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú ký tên và đóng dấu; đối với những nơi không có đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn thì do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh ký tên và đóng dấu.
Thẻ cử tri của công dân ở đơn vị vũ trang nhân dân do chỉ huy đơn vị ký tên và đóng dấu.
Khi cử tri bỏ phiếu xong, Tổ bầu cử có trách nhiệm đóng dấu "Đã bỏ phiếu" vào thẻ cử tri.
Câu 20: Về thể thức bỏ phiếu Luật Bầu cử quy định như thế nào?
Trả lời:
Theo quy định tại Mục 2, Chương 6, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội thì:
- Mỗi cử tri có quyền bỏ mộtphiếu bầu đại biểu Quốc hội.
- Cử tri phải tự mình đi bầu, không được nhờ người khác bầu thay, trừ trường hợp cử tri không thể tự viết được phiếu bầu thì nhờ người khác viết hộ, nhưng phải tự mình bỏ phiếu; người viết hộ phải bảo đảm bí mật phiếu bầu của cử tri; nếu cử tri vì tàn tật không tự bỏ phiếu được thì nhờ người khác bỏ phiếu vào hòm phiếu.
- Trong trường hợp cử tri ốm đau, già yếu, tàn tật không thể đến phòng bỏ phiếu được thì Tổ bầu cử mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến chỗ ở của cử tri để cử tri nhận phiếu và bầu.Khi bầu cử phải xuất trình thẻ cử tri.
- Khi cử tr iviết phiếu bầu, không ai được xem, kể cả thành viên Tổ bầu cử. Nếu viết hỏng,cử tri có quyền đổi phiếu bầu khác.
- Khi cử tri bỏ phiếu xong, Tổ bầu cử có trách nhiệm đóng dấu “đã bỏ phiếu” vào thẻ cử tri.
Câu 21: Phiếu như thế nào là phiếu hợp lệ?
Trả lời:
Theo quy định tại Điều 22 Nghị quyết số 1020/2011/UBTVQH12 ngày 14/2/2011 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội hướng dẫn một số điểm về việc tổ chức cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011-2016 thì những phiếu sau đây là phiếu hợp lệ:
1. Phiếu bầu theo mẫu quy định do Tổ bầu cử phát, có dấu của Tổ bầu cử;
2. Phiếu bầu đủ hoặc ít hơn số đại biểu mà đơn vị bầu cử được bầu;
3. Phiếu bầu gạch tên ứng cử viên không được tín nhiệm bằng cách gạch chéo, gạch xiên, gạch dọc hoặc gạch ngang, nhưng phải gạch hết họ và tên.
Câu 22: Phiếu như thế nào là không hợp lệ?
Trả lời:
Theo quy định tại Điều 65 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và Điều 56 Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thì những phiếu sau đây là những phiếu không hợp lệ:
1. Phiếu không theo mẫu quy định do Tổ bầu cử phát;
2. Phiếu không có dấu của Tổ bầu cử;
3. Phiếu để số người được bầu quá số đại biểu mà đơn vị bầu cử được bầu;
4. Phiếu gạch xoá hết tên những người ứng cử;
5. Phiếu có ghi tên người ngoài danh sách ứng cử, phiếu có viết thêm./.
Tin: Phòng Tư pháp