Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII đã thống nhất nhận định: Trong 15 năm triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá X về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị, chúng ta đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần nâng cao vai trò, hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy tốt hơn vai trò, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước theo quy định của pháp luật; nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, có nhiều đóng góp tích cực vào những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, làm cho đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.
Đổi mới phương thức lãnh đạo là một trong những nhóm nhiệm vụ, giải pháp rất quan trọng nhằm không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới. So với các kỳ Đại hội trước, vấn đề này trong Văn kiện Đại hội XIII có nhiều điểm mới được bổ sung.
Đại hội XIII của Đảng đánh giá: “Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức trong hệ thống chính trị tiếp tục được tăng cường, nhất là với Nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; đồng thời, phát huy dân chủ, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và quyền làm chủ của nhân dân”. Việc ban hành chủ trương, nghị quyết của Đảng đã bám sát thực tiễn, phát huy dân chủ, gắn với xây dựng kế hoạch và chỉ đạo tổ chức thực hiện quyết liệt. Phong cách, lề lối làm việc của nhiều cơ quan lãnh đạo từ Trung ương đến cơ sở được đổi mới theo hướng bám sát thực tiễn, sâu sát cơ sở… “Mặc dù vậy, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị còn chậm đổi mới, có mặt còn lúng túng”. Biểu hiện là: Cơ chế kiểm soát quyền lực chưa đầy đủ, đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả chưa cao; công tác thể chế hóa, cụ thể hóa chưa đầy đủ, chưa kịp thời thành pháp luật của Nhà nước về một số chủ trương, nghị quyết của Đảng; việc ban hành nghị quyết của một số tổ chức đảng chưa sát thực tiễn, thiếu tính khả thi; trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện một số nghị quyết chưa nghiêm, hiệu quả thấp; vẫn còn tình trạng bao biện làm thay hoặc buông lỏng lãnh đạo của một số tổ chức Đảng; còn có mặt hạn chế trong công tác giáo dục, thuyết phục nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước; một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa thật sự tiên phong, gương mẫu,...
Tình hình nêu trên sẽ tác động mạnh, nhiều chiều đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên. Từ đó, Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới”. Để đạt hiệu quả, cần quán triệt, thực hiện đồng bộ một số nội dung, giải pháp sau:
Một là, nâng cao năng lực dự báo, tầm nhìn chiến lược trong hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị và toàn xã hội bằng Cương lĩnh, đường lối, chủ trương của mình (hình thức là các nghị quyết). Đây là điều cơ bản nhất, bởi các nghị quyết của Đảng chính là sự kết tinh bản lĩnh chính trị, trí tuệ tập thể. Nếu nghị quyết của Đảng không phù hợp sẽ dẫn tới hậu quả khôn lường; đường lối của Đảng đúng đắn là nhân tố hàng đầu, bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Phương thức lãnh đạo của Đảng chỉ được đổi mới mạnh mẽ và phát huy hiệu quả khi Đảng đề ra Cương lĩnh, đường lối, chủ trương đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đất nước và xu thế của thời đại.
Trong xây dựng nghị quyết của Đảng, yêu cầu rất quan trọng là phải làm tốt công tác dự báo; phải căn cứ vào diễn biến và chiều hướng phát triển tình hình mọi mặt ở trong nước và quốc tế để dự báo chính xác tình hình. Trên cơ sở đó, hoạch định đường lối, chủ trương chiến lược dài hạn, cũng như ngắn hạn để xây dựng và phát triển đất nước phù hợp với thực tiễn, có tính khả thi cao. Đây là công việc rất khó của tổ chức và cá nhân người lãnh đạo, quản lý; phụ thuộc vào bản lĩnh chính trị và tầm trí tuệ của người dự báo. Vì thế, phải chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, tầm trí tuệ của các tổ chức đảng và đảng viên. Điều này phụ thuộc vào quá trình hoạt động thực tiễn, qua học tập, rèn luyện, nghiên cứu hàn lâm và tổng kết thực tiễn để nắm chắc tình hình mọi mặt trong nước và quốc tế ở mọi lúc, mọi nơi để dự báo. Đồng thời, coi trọng xây dựng đội ngũ chuyên gia để tham mưu, tư vấn cho các tổ chức đảng trong nghiên cứu, hoạch định Cương lĩnh, đường lối, chủ trương một cách đúng đắn.
Hai là, đổi mới việc xây dựng, ban hành và nâng cao chất lượng các nghị quyết của Đảng; khắc phục tình trạng ban hành nghị quyết chưa sát thực tiễn, thiếu tính khả thi. Đây là nội dung rất quan trọng, góp phần đưa nghị quyết của Đảng thực sự đi vào cuộc sống; do đó, quá trình tiến hành cần chú trọng những vấn đề sau:
Lựa chọn đúng chủ đề để xây dựng nghị quyết. Thông thường, nội dung này sẽ sớm được đề ra cho chương trình toàn khóa của cấp ủy; ngoài chương trình toàn khóa, trong thực tiễn có thể nảy sinh những vấn đề mới, Đảng cần nhanh nhạy nắm bắt, kịp thời nghiên cứu để xây dựng nghị quyết;
Trên cơ sở ý kiến của cấp ủy, đội ngũ chuyên gia nghiên cứu một cách kỹ lưỡng, sâu sắc cả cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn để đưa ra dự thảo nghị quyết bảo đảm có chất lượng;
Trình bày nội dung phải vừa sát hợp đáp ứng đúng yêu cầu hoạt động thực tiễn của Đảng, phải vừa phổ thông, dễ hiểu, súc tích, dễ triển khai (nghĩa là, phải có tính khả thi); đồng thời, tránh sao chép giữa nghị quyết tổ chức đảng cấp dưới với cấp trên và giữa các tổ chức đảng với nhau;
Thảo luận những vấn đề đặt ra. Việc này trước hết là ở trong đội ngũ các chuyên gia, tùy từng điều kiện, yêu cầu theo chủ đề và tính chất của từng nghị quyết để có thể đưa ra lấy ý kiến rộng rãi hơn ở các cơ quan thành viên hệ thống chính trị, thậm chí đưa ra để xin ý kiến toàn dân. Trong sinh hoạt đảng, việc thảo luận các vấn đề được tiến hành trước hết là trong thường vụ, thường trực, sau đó là toàn thể cấp ủy và cuối cùng là hội nghị toàn thể, hoặc hội nghị đại biểu đảng viên. Tất cả các cuộc thảo luận trong Đảng phải kết thúc bằng việc biểu quyết thông qua, trở thành nghị quyết;
Ban hành nghị quyết phải kịp thời, đúng đối tượng, đúng địa chỉ.
Ba là, lãnh đạo nâng cao năng lực của Nhà nước trong thể chế hóa, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng. Chúng ta biết, trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng thì đổi mới phương thức lãnh đạo đối với Nhà nước là trọng yếu nhất. Bởi vì, vai trò của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng là tổ chức kiến tạo; đồng thời, Nhà nước còn là tổ chức đề ra chính sách quốc gia và tổ chức thực hiện những chính sách đó. Vì vậy, Nhà nước có trách nhiệm thể chế, cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng. Đảng lãnh đạo Quốc hội, Chính phủ nâng cao chất lượng lập pháp, cải cách hành chính, cải cách tư pháp. Trong xã hội nước ta hiện nay, quyền lực tối cao đều thuộc về nhân dân. Không những Đảng, mà Nhà nước với các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp, đều có trách nhiệm phục vụ nhân dân, làm đầy tớ cho nhân dân. Nhà nước phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện theo chức năng của mình, chức năng quản lý xã hội với hệ thống pháp luật được thể chế hóa từ đường lối, chủ trương của Đảng và từ sự ủy quyền của nhân dân, từ quyền làm chủ của nhân dân. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị nói chung và Nhà nước nói riêng thông qua hệ thống bộ máy tổ chức của Đảng trong các cơ quan, bộ máy tổ chức của Nhà nước. Với vị trí, vai trò cầm quyền, theo chức năng, nhiệm vụ, các tổ chức đảng ở trong bộ máy Nhà nước đều có trách nhiệm lãnh đạo, nhất là đối với công tác cán bộ, vì Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ của toàn hệ thống chính trị. Tổ chức đảng các cấp có trách nhiệm giới thiệu nhân sự của mình để các tổ chức đó bầu cử hoặc bổ nhiệm vào các cơ quan, tổ chức Nhà nước.
Bốn là, bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội; đồng thời, tôn trọng các nguyên tắc tổ chức và hoạt động, vai trò, tính tự chủ, năng động, sáng tạo của các tổ chức đó. Trong mọi mặt hoạt động của đời sống xã hội, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội là tổ chức của nhân dân. Với vai trò, trách nhiệm là hạt nhân lãnh đạo của hệ thống chính trị, Đảng phải bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất đối với các tổ chức đó. Trong lãnh đạo, phải bảo đảm phương thức thích hợp bằng cách tôn trọng các nguyên tắc tổ chức và hoạt động; vai trò, tính tự chủ, năng động, sáng tạo của các tổ chức, khắc phục tình trạng lãnh đạo, chỉ đạo theo kiểu áp đặt chủ quan; cần đổi mới cách tuyên truyền vận động nhân dân, tạo sự đồng thuận trong việc thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc chính là thước đo cho sự phù hợp, đúng đắn của phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội.
Năm là, cụ thể hóa nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, khắc phục tình trạng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng lãnh đạo, quản lý. Hơn lúc nào hết, Đảng cần thực hiện thật tốt các nguyên tắc tổ chức, xây dựng Đảng, nhất là nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Phải tôn trọng tập thể lãnh đạo và phát huy được sức mạnh trí tuệ, hành động của tập thể; đồng thời, đề cao trách nhiệm cá nhân. Kiên quyết khắc phục, phòng, chống biểu hiện độc đoán, chuyên quyền, mệnh lệnh, quan liêu; trông chờ, ỷ lại, dựa dẫm tập thể, thiếu quyết đoán, không dám chịu trách nhiệm. Trên thực tế, có lúc, có nơi, Đảng vẫn còn tình trạng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng lãnh đạo, quản lý. Muốn đổi mới có hiệu quả phương thức lãnh đạo của Đảng, nhất thiết phải khắc phục cho được tình trạng này.
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị thông qua các tổ chức và đội ngũ cán bộ, đảng viên. Và cán bộ, đảng viên tiên phong, gương mẫu là yêu cầu bắt buộc trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị và toàn xã hội. Do đó, cần phát huy tốt tính tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong bộ máy Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Các tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên phải tuân thủ nghiêm Hiến pháp, pháp luật; đi đầu và tích cực trong thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Vì vậy, cần quy định cụ thể quyền hạn, trách nhiệm của các tổ chức đảng, của cán bộ, nhất là người đứng đầu trong mối quan hệ với cấp ủy, với tổ chức đảng cũng như với các tổ chức khác trong xã hội. Phải “có cơ chế sàng lọc, thay thế kịp thời những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm pháp luật, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, bị xử lý kỷ luật, không còn uy tín đối với nhân dân”.
Sáu là, Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị và xã hội bằng công tác kiểm tra, giám sát. Đây là vấn đề quan trọng, có tính xuyên suốt trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong tình hình mới. Vì thế, giải pháp này cần được thực hiện bằng chính nhiệm vụ thường xuyên kiểm tra, giám sát trong nội bộ Đảng; đồng thời, bằng sự phối hợp với các tổ chức khác trong hệ thống chính trị và vận động nhân dân tham gia để nâng cao hiệu quả thiết thực. Bên cạnh đó, công tác kiểm tra, giám sát phải được kết hợp với việc sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm trong quá trình triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng; công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu... Đây chính là phương thức chống “giặc nội xâm” có hiệu quả nhất; phát huy kết quả đã đạt được trong thời gian qua khi “lò” chống tham nhũng, tiêu cực trong Đảng, Nhà nước đã được Tổng Bí thư phát động, không có vùng cấm, thật sự nghiêm minh, mọi cán bộ, đảng viên đều bình đẳng trước Điều lệ Đảng, trước pháp luật, không còn tình trạng của các kiểu “chạy” trong đời sống xã hội; khắc phục tình trạng đặc quyền, đặc lợi, xây dựng đạo đức cách mạng trong toàn Đảng và xã hội.
Cùng với đó, chủ động rà soát, sửa đổi, bổ sung hệ thống các văn bản của Đảng để phù hợp với chế định trong Hiến pháp, bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ, liên thông trong hệ thống chính trị. Tích cực ứng dụng và phát huy hiệu quả tiến bộ công nghệ thông tin, kỹ thuật số vào công tác lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị; tiến tới thực hiện mục tiêu chuyển đổi số quốc gia theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.
Trên cơ sở thống nhất cao về nhận thức, cần phải có quyết tâm cao, nỗ lực lớn trong tổ chức thực hiện, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, sâu sắc nhận thức về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới, triển khai thực hiện đồng bộ các phương thức lãnh đạo của Đảng trên cơ sở đẩy mạnh đổi mới, nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các nghị quyết của Đảng; đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tổ chức, cán bộ; đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động; phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên; đồng thời, đẩy mạnh cải cách hành chính; đổi mới phong cách lãnh đạo, phương pháp công tác, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương tới cơ sở.
Phương thức lãnh đạo của Đảng là yếu tố “động”, luôn luôn cần phải hoàn thiện để phù hợp với điều kiện mới.
Trước yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng hiện nay, đòi hỏi tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao hơn nữa năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng để lãnh đạo đất nước phát triển nhanh và bền vững trên con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
(Nguồn: Tạp chí xây dựng Đảng và phát biểu của Đồng chí Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng bế mạc Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khoá XIII)